THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w90 1/5 trg 14-19
  • Mở đường trở lại Địa-Đàng

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Mở đường trở lại Địa-Đàng
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1990
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Giê-su hứa cho kẻ trộm được sống trong Địa-đàng
  • Giá chuộc để mở đường
  • Nước Trời đến đúng lúc
  • Địa-đàng được tái lập bởi “A-đam sau hết”
  • Một kỷ nguyên Thế giới Mới hào hứng sắp đến
  • Địa-Đàng tái lập làm vinh hiển Đức Chúa Trời
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1990
  • Kinh-thánh có hứa về một Địa-đàng trên đất không?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1985
  • Chúa Giê-su có hứa là tội nhân bên cạnh ngài sẽ sống ở trên trời?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2013
  • Một địa đàng đầy vui thích cho cả nhân loại
    Tin mừng—‏Đem lại hạnh phúc cho bạn
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1990
w90 1/5 trg 14-19

Mở đường trở lại Địa-Đàng

“Chúa Giê-su đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi hôm nay: Ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (LU-CA 23:43).

1, 2. a) “Địa-đàng” có nghĩa gì và vườn Ê-đen ngày xưa đã giống như gì? b) Chữ Hê-bơ-rơ để gọi cái “vườn” được dịch thế nào trong phần Kinh-thánh tiếng Hy-lạp?

GIA ĐÌNH nhân loại bắt nguồn trong vườn Địa-đàng. Về sự sáng tạo loài người, chúng ta đọc trong sách đầu của Kinh-thánh: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh-khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh-linh. Đoạn, Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó” (Sáng-thế Ký 2:7, 8). Tên “Ê-đen” có nghĩa là “Lạc thú”, và vì vậy mà vườn Ê-đen thuở xưa là một công viên rộng lớn đầy lạc thú với nhiều đặc điểm xinh đẹp khác nhau.

2 Chữ “địa-đàng” xuất phát từ tiếng Hy-lạp và trong tiếng đó địa-đàng có nghĩa là một vườn giống như công viên. Chữ Hy-lạp được dùng để dịch danh từ gan trong tiếng Hê-bơ-rơ, nghĩa là “vườn”, là pa.ra’dei.sos. Phần Kinh-thánh từ Ma-thi-ơ đến Khải-huyền được viết bằng tiếng Hy-lạp, và chữ Hy-lạp nầy đã được dùng để ghi lại lời của Chúa Giê-su khi ngài chịu đau đớn đến chết trên cây khổ hình tại Chỗ Sọ vào ngày 14 Ni-san năm 33 tây lịch.

Giê-su hứa cho kẻ trộm được sống trong Địa-đàng

3. a) Tên trộm biết thương xót đã hỏi Giê-su điều gì? b) Lời yêu cầu của tên trộm chứng tỏ gì về sự tin tưởng của hắn đối với Giê-su?

3 Lúc đó có hai tên trộm cũng bị đóng đinh bên cạnh Giê-su. Một tên đã ngưng mắng nhiếc Giê-su; trái lại, tên thứ hai bị đóng đinh ở bên kia của Giê-su thì cứ tiếp tục. Tên trộm biết thương xót quay sang và nói: “Hỡi Giê-su, khi ngài đến trong nước mình rồi, xin nhớ lấy tôi!”, qua lời đó hắn biểu lộ đức tin là Giê-su, dù đang bị treo bên cạnh hắn, sẽ nhận được một nước trong tương lai (Lu-ca 23:42; Mác 15:32). Điều đó hẳn đã động đến lòng Chúa Giê-su biết bao! Tên trộm thân thiện đã tin rằng Giê-su Christ không có tội và không đáng chịu hình phạt nặng nề là bị đóng đinh nhục nhã trước công chúng (Lu-ca 23:41). Qua lời yêu cầu đó hắn chứng tỏ tin ràng Giê-su sẽ sống lại từ người chết và nhận được nước. Tên trộm cũng bày tỏ đức tin là chính hắn cũng sẽ được sống lại và rồi Giê-su sẽ là đấng gọi hắn ra từ trong kẻ chết và ban ân huệ cho hắn để làm lại cuộc đời trên đất.

4. Giê-su đáp lại lời yêu cầu của tên trộm thế nào, và điều đó tiết lộ gì?

4 Khi Giê-su nói với hắn: “Quả thật, ta nói cùng ngươi hôm nay: Ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi”, ngài nói về sự sống lại của tên trộm biết thương xót đó. Điều đó chắc đã là một niềm an ủi thật cho tên tội phạm bày tỏ đức tin. Để cho có được sự sống lại cho người đó, Giê-su phải sống lại trước. Rồi, hành xử quyền làm cho sống lại mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngài, Giê-su gọi tên trộm ra từ trong kẻ chết trong ngày sống lại của thế giới loài người (Lu-ca 23:43; Giăng 5:28, 29; I Cô-rinh-tô 15:20, 23; Hê-bơ-rơ 9:15).

5, 6. a) Quan tổng trấn Bôn-xơ Phi-lát cho viết gì phía trên cột treo Giê-su? b) Rất có thể Giê-su đã nói với tên trộm bằng thứ tiếng nào?

5 Giê-su đã nói lời hứa đó bằng tiếng nào? Nhiều thứ tiếng được dùng trong thời đó. Điều nầy được thấy qua lời của tổng trấn Bôn-xơ Phi-lát bảo viết hàng chữ phía trên đầu Giê-su Christ đang bị treo, chỉ rõ lai lịch của ngài cho mọi người đi ngang qua đọc. Lời tường thuật nơi Giăng 19:19, 20 nói: “Phi-lát cũng sai làm một tấm bảng rồi treo lên trên [cây khổ hình]. Trên bảng đó, có đề chữ rằng: Giê-su người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa. Vì nơi Chúa Giê-su bị đóng đinh gần thành, và chữ đề trên bảng đó viết bằng chữ Hê-bơ-rơ, chữ La-tinh và chữ Gờ-réc, nên có nhiều người Giu-đa đọc đến”.

6 Sanh ra tại Bết-lê-hem qua người mẹ đồng trinh Ma-ri, Giê-su là người Do-thái, hay người Hê-bơ-rơ, từ khi sanh ra. Theo đó thì trong việc rao giảng ba năm rưỡi tại nguyên quán, ngài hiển nhiên đã rao giảng bằng tiếng Do-thái đương thời hay tiếng Hê-bơ-rơ. Bởi vậy khi ngài hứa với tên trộm biết thương xót, ngài chắc hẳn đã nói bằng tiếng Hê-bơ-rơ. Vì thế ngài có thể đã dùng chữ Hê-bơ-rơ gan khi nói về Địa-đàng—chữ nầy được tìm thấy nơi Sáng-thế Ký 2:8. Ở đó, bản dịch Kinh-thánh Septuagint sang tiếng Hy-lạp dùng chữ pa.ra’dei.sos khi dịch chữ nguyên thủy là gan.

7. Giê-su được vinh hiển thế nào khi sống lại?

7 Giê-su sống lại từ người chết vào ngày thứ ba sau khi bị đóng đinh, hay vào ngày 16 Ni-san theo lịch Do-thái. Bốn mươi ngày sau đó ngài trở về trời, chỗ ở nguyên thủy của ngài, nhưng bây giờ thì có địa vị cao quí hơn (Công-vụ các Sứ-đồ 5:30, 31; Phi-líp 2:9). Bây giờ, ngài mặc lấy sự bất tử, có cùng đặc tính với Cha ngài trên trời. Giê-hô-va Đức Chúa Trời trước đó là Đấng Bất tử duy nhất cho đến khi Giê-su sống lại từ trong người chết, vào ngày Chủ nhật, 16 Ni-san (Rô-ma 6:9; I Ti-mô-thê 6:15, 16).

Giá chuộc để mở đường

8. Đức Giê-hô-va có ý định nguyên thủy nào đối với trái đất, và điều gì cho thấy Ngài vẫn còn giữ ý định đó?

8 Tất cả những điều nầy là những giai đoạn trong ý định của Đức Chúa Trời muốn cho toàn thể trái đất mặc lấy vẻ đẹp địa-đàng, đúng, để trở thành một vườn địa-đàng trên khắp đất (Sáng-thế Ký 1:28; Ê-sai 55:10, 11). Nơi I Cô-rinh-tô 15:45 sứ đồ Phao-lô nói về Giê-su là “A-đam sau hết”, Điều nầy cho thấy Đức Chúa Trời vẫn giữ ý định nguyên thủy của Ngài đối với trái đất và một người nào đó sẽ thực hiện ý định mà A-đam đầu tiên đã không hoàn thành.

9. Giê-su cung cấp điều gì để mở đường trở lại Địa-đàng?

9 Theo Phao-lô, Giê-su đã cung cấp một “giá chuộc [tương ứng]” (I Ti-mô-thê 2:6). Chính Giê-su Christ đã nói: “Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người”. Điều nầy làm cho những người thực hành đức tin nơi Giê-su Christ có thể đạt được sự sống đời đời (Ma-thi-ơ 20:28; Giăng 3:16).

10. a) Đức Chúa Trời đã quyết định gì về số người có giới hạn được ưu đãi? b) Việc lựa chọn “bầy nhỏ” bắt đầu lúc nào và bởi ai?

10 Khi Giê-su Christ lên trời sau sự sống lại của ngài từ trong kẻ chết, ngài có thể dâng giá trị của giá chuộc hy sinh của ngài cho Đức Chúa Trời vì gia đình nhân loại. Tuy nhiên, ý định của Cha trên trời của ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời là lấy ra từ mọi nước trên đất “một dân để dâng cho danh Ngài” (Công-vụ các Sứ-đồ 15:14). Theo Khải-huyền 7:4 và 14:1-4, số nầy chỉ có 144.000 người, là “bầy nhỏ” được gọi vào Nước trên trời của Đức Chúa Trời (Lu-ca 12:32). Việc chọn lựa những người được đặc biệt ưu đãi nầy của Giê-hô-va Đức Chúa Trời bắt đầu với sự lựa chọn 12 sứ đồ của Giê-su Christ (Ma-thi-ơ 10:2-4; Công-vụ các Sứ-đồ 1:23-26). Giê-su nói với các thành viên căn bản hợp thành hội-thánh ngài: “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi” (Giăng 15:16). Những người nầy đi tiên phong trong công việc rao báo về Địa-đàng sắp đến trên khắp đất dưới sự cai trị của Nước Trời.

Nước Trời đến đúng lúc

11. Nước của đấng Mê-si được thành lập trong kỳ hạn nào?

11 Nhân danh Chúa Giê-su Christ, chúng ta ngày nay tiếp tục dâng lời cầu nguyện lên Đức Giê-hô-va, xin Nước Ngài được đến (Ma-thi-ơ 6:9, 10; Giăng 14:13, 14). Nước của đấng Mê-si đã đến khi được thành lập vào lúc cuối cùng của “các kỳ dân ngoại” (Lu-ca 21:24). Các kỳ dân ngoại đó hết hạn năm 1914.a

12. Điều gì đã xảy ra năm 1914 hòa hợp với lời tiên tri của Giê-su về những điều đáng chú ý báo hiệu sự hiện diện vô hình của ngài?

12 Năm đó được đánh dấu bởi Thế Chiến thứ I trong lịch sử nhân loại. Điều nầy hòa hợp với lời tiên tri của Giê-su về những sự đáng chú ý báo hiệu sự hiện diện vô hình của ngài trong quyền thế Nước Trời đối với trái đất. Các môn đồ đã đặt cho ngài câu hỏi: “Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận-thế?” Để trả lời Giê-su nói: “Dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói-kém và động đất. Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai-hại. [Tin mừng] nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối-cùng sẽ đến” (Ma-thi-ơ 24:3, 7, 8, 14; Mác 13:10).

13. a) Việc rao giảng tin mừng về Nước Trời dựa trên vấn đề gì? b) Những lời cầu nguyện về Nước Trời đã dâng lên từ bao lâu rồi, và các nhân-chứng của Ngài trên đất có bao giờ mỏi mệt trong việc dâng những lời cầu nguyện nầy không?

13 Hiện nay tin mừng nầy về Nước của Đức Giê-hô-va được giảng ra trong hơn 200 nước và với những cố gắng để bành trướng công việc nầy đến những khu vực xa hơn. Đó là tin tức, không phải về một chính phủ thế giới sắp sửa đến nhưng mà là một nước hiện đang hành quyền, đang cai trị. Nước Trời đã được thành lập năm 1914, khởi sự đáp lại lời cầu nguyện mà Giê-su đã đặt ra cách đây hơn 1.900 năm. Lời cầu nguyện đã được dâng lên cho Đấng Sáng lập Nước Trời, kể từ khi đấng được chỉ định để làm Vua tương lai của chính phủ đó dạy các môn đồ cầu nguyện cho nước của ngài. Vậy Tác giả của Nước Trời đã nghe lời cầu xin về Nước đó lâu lắm rồi. Ngài đã vui lòng nghe lời cầu xin dâng lên Ngài qua các nhân-chứng của Ngài trên đất trong suốt thời gian đó, vì điều đó bày tỏ rằng họ giữ vững đức tin về sự kiện Nước Trời sẽ đến. Họ không lấy làm mệt mỏi mà dâng lên lời cầu nguyện nói “Lạy Cha chúng tôi ở trên trời”, họ không để điều đó trở nên một cái gì lạt lẽo đối với họ (Ma-thi-ơ 6:9, 10).

14. Tại sao Nhân-chứng Giê-hô-va bền bỉ rao giảng tin mừng về Nước Trời?

14 Trong lúc Nhân-chứng Giê-hô-va tin tưởng và tuyên bố về Nước Trời đã thành lập ở trên trời năm 1914, họ bền bỉ rao giảng tin mừng nầy về Nước Trời. Họ làm thế là vì Nước Trời được thành lập đó chưa nắm được toàn quyền kiểm soát trái đất nhưng để cho các nước thế gian tiếp tục xử dụng quyền hành và quyền thế trên mọi chi phái và mọi chủng tộc trong nhân loại (Rô-ma 13:1). Do đó Nước Trời phải đến với trọn ý nghĩa, đó là cho đến khi nào Nước Trời là chính phủ duy nhất thống trị khắp trái đất (Đa-ni-ên 2:44).

15. Điều gì đã xảy ra kể từ ngày lễ Ngũ tuần năm 33 tây lịch, có bình diện rộng lớn hơn là khi các vua Y-sơ-ra-ên được xức dầu?

15 Mặc dù được chỉ định làm Vua Nước Trời, Giê-su không cai trị một mình. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã bổ nhiệm 144.000 môn đồ của Con hoàng tộc của Ngài để đồng kế tự trong Nước Đức Chúa Trời (Đa-ni-ên 7:27). Cũng như các vua ngày xưa của Y-sơ-ra-ên được bổ nhiệm bằng việc xức dầu thánh bởi thầy tế lễ thượng phẩm, vậy kể từ ngày lễ Ngũ tuần năm 33 tây lịch, Đức Giê-hô-va đã xức dầu bằng thánh linh cho 144.000 người đồng kế tự với Giê-su Christ, cho họ một đời sống thần linh trên trời với “Vua của các vua và Chúa của các chúa”. (Khải-huyền 19:16; so sánh I Các Vua 1:39).

Địa-đàng được tái lập bởi “A-đam sau hết”

16. Triển vọng về Nước Trời ra sao lúc Giê-su bị đóng đinh, nhưng tại sao ngài không phải là người tuyên bố về một tin tức thất thiệt?

16 Lúc Giê-su bị đóng đinh năm 33 tây lịch, khó mà nghĩ là ngài có thể nhận được nước. Nhưng trong việc rao giảng về Nước Trời của ngài, ngài đã không phải là người tuyên bố về một tin tức thất thiệt. Vào ngày thứ ba sau khi bị đóng đinh, Đấng Sáng lập Nước Trời cam đoan rằng các môn đồ của Giê-su đã không dâng lời cầu nguyện cho một chính phủ mà không thể có được. Đức Giê-hô-va đã làm sống lại đấng đại diện cho Ngài trong Nước Trời được cầu xin và ban cho đấng đó sự bất tử.

17, 18. a) Giê-su được gọi là “A-đam sau hết” có ý nghĩa gì? b) Các biến cố trên thế giới kể từ năm 1914 tiết lộ gì?

17 Giê-su biết rằng Đấng Tạo hóa của Địa-đàng đầu tiên trên đất giao cho ngài trọng trách làm mới lại Địa-đàng và chăm lo cho việc có đầy người trong vườn Địa-đàng khắp đất. Nơi I Cô-rinh-tô 15:45, 47, chúng ta đọc: “Ấy vậy, có lời chép rằng: Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh-hồn sống. A-đam sau hết là thần ban sự sống. Người thứ nhứt bởi đất mà ra, là thuộc về đất, người thứ hai bởi trời mà ra”. A-đam thứ hai từ trên trời xuống và là đấng mà Đức Giê-hô-va dùng để tái lập Địa-đàng trên trái đất nầy. Căn cứ vào điều nầy, Chúa Giê-su nói với tên trộm biết thương xót: “Ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (Lu-ca 23:43). Từ cuộc đối thoại nầy người ta thấy rõ là Địa-đàng sẽ được thành lập trên đất dưới sự cai trị của Nước Trời trong tay của Giê-su Christ đầy vinh hiển tức “A-đam sau hết”.

18 Những biến cố trên thế giới kể từ năm 1914 hòa hợp với lời tiên tri phán bởi Giê-su Christ và vì thế chứng tỏ là Giê-su nắm quyền từ lúc đó. Vì bây giờ đã hơn 70 năm, thế hệ loài người trong thế kỷ 20 sống từ năm 1914 đã trải qua những biến cố làm ứng nghiệm lời tiên tri của Giê-su được liệt kê nơi Ma-thi-ơ đoạn 24. Do đó, thời kỳ nầy rất gần lúc cuối cùng, với sự tái lập Địa-đàng trên đất gần kề. (Ma-thi-ơ 24:32-35; so sánh Thi-thiên 90:10).

Một kỷ nguyên Thế giới Mới hào hứng sắp đến

19, 20. a) Sau trận Ha-ma-ghê-đôn, Đức Giê-hô-va đưa những người yêu thương Ngài vào đâu? b) Điều gì cần phải làm ngay sau Ha-ma-ghê-đôn?

19 Đức Giê-hô-va sẽ không đưa những người yêu thương Ngài vào một hệ thống mọi sự nhàm chán, buồn tẻ sau khi Ngài biện minh quyền chủ tể vũ trụ không còn hoài nghi gì được nữa trong trận chiến Ha-ma-ghê-đôn. Kỷ nguyên sắp tới cho gia đình nhân loại dưới sự cai trị lành mạnh của vua Mê-si Giê-su, Con Đức Chúa Trời, sẽ là một sự cai trị hào hứng nhất. Ồ, biết bao nhiêu điều lợi ích cần phải làm! Tất cả những vết tích còn sót lại trên đất sau cuộc tranh chấp hoàn cầu giữa quân đội trên trời của Đức Giê-hô-va và các lực lượng gian ác sẽ được tẩy sạch. Sẽ không còn dấu vết nào nữa.

20 Nhưng nói gì về tất cả các vũ khí dùng trong chiến tranh mà các nước sẽ bỏ lại? Qua sự tiết lộ về thời gian tượng trưng cần thiết để tiêu hủy những phần đốt cháy được của các vũ khí đó, người ta hiểu là số vũ khí có nhiều kinh khủng (Ê-xê-chi-ên 39:8-10). Những người sống sót qua khỏi trận Ha-ma-ghê-đôn sẽ có thể biến đổi những vật liệu chiến tranh còn lại của các nước để dùng trong những việc có ích (Ê-sai 2:2-4).

21. Tương tợ với kinh nghiệm của những người sống sót qua trận Nước Lụt, những người sống sót qua trận Ha-ma-ghê-đôn sẽ đương đầu với tình trạng nào, nhưng có sự khác biệt lớn nào?

21 Những người ngày nay được ban phước tương đương với Nô-ê và gia đình ông từng sống sót nhờ phép lạ qua khỏi trận Nước Lụt toàn cầu sẽ đối diện với cùng một tình trạng trên đất tương tợ như gia đình Nô-ê. Tuy nhiên, Sa-tan Ma-quỉ và các lực lượng quỉ sứ của hắn sẽ không còn gieo rắc tai họa cho khoảng không trung vô hình bao quanh trái đất nhưng sẽ không còn hành động gì được trong vòng 10 thế kỷ (Khải-huyền 20:1-3). Những người sống sót qua trận Ha-ma-ghê-đôn sẽ có một trọng trách khắc phục một trái đất vừa trải qua “ngày lớn của Đức Chúa Trời toàn-năng”, đương đầu với bất cứ ảnh hưởng nào mà hoạn nạn lớn sẽ để lại trên hành tinh nầy (Khải-huyền 16:14).

22. Những người sống sót qua trận Ha-ma-ghê-đôn sẽ phản ứng thế nào trước trọng trách mở rộng Địa-đàng trên khắp đất?

22 Một số tương đối ít những người sống sót qua trận chiến Ha-ma-ghê-đôn bình thường có lẽ sợ sệt khi phải đương đầu với công việc to tát làm lan rộng Địa-đàng ra khắp đất. Những ngược lại, vì vui mừng quá đỗi, họ sẽ can đảm và vâng lời bắt tay vào công việc. Họ nhận biết trái đất nầy là bệ chân tượng trưng của Đức Chúa Trời và họ thành thật muốn đem địa cầu đến tình trạng xinh đẹp mỹ miều đáng cho Ngài đặt chân lên đó.

23. Những người sống sót qua trận Ha-ma-ghê-đôn sẽ có sự trợ giúp nào để bảo đảm là công việc tái lập Địa-đàng sẽ thành công?

23 Thật là sung sướng và khích lệ thay khi biết rằng họ sẽ không bị bỏ rơi một mình, không được trợ giúp sau khi nhận lãnh chức vụ vui mừng là hoàn thành nhiệm vụ do Đức Chúa Trời giao phó đối với trái đất. (So sánh Ê-sai 65:17, 21-24). Họ sẽ có sự trợ giúp đầy đủ, không giới hạn của đấng đã hứa tái lập lại Địa-đàng, đấng đã nói trong ngày ngài trở về trời: “Hết cả quyền-phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta” (Ma-thi-ơ 28:18). Ngài vẫn còn nắm giữ uy quyền đó và có thể hoàn thành lời hứa đáng ghi nhớ nói với tên trộm biết thương xót như chúng ta sẽ thấy trong bài tới đây.

[Chú thích]

a Để có thêm chi tiết, xin xem sách “Let Your Kingdom Come” (“Que ton royaume vienne!”), xuất bản bởi Hội Tháp Canh (Watchtower Bible and Tract Society of New York, Inc.), trang 135-139. Cũng xem Ê-xê-chi-ên 21:27.

Câu hỏi ôn lại

◻ Lời hứa của Giê-su tại Chỗ Sọ bảo đảm gì cho nhân loại và cho một tên tội phạm?

◻ Điều gì là căn bản để mở đường trở lại Địa-đàng?

◻ A-đam đầu tiên đã thất bại trong việc gì, nhưng “A-đam sau hết” đã thực hiện được gì?

◻ Sau trận Ha-ma-ghê-đôn, Đức Giê-hô-va sẽ đưa những người yêu thương Ngài vào một hệ thống mọi sự loại nào?

[Hình nơi trang 17]

Bài báo “Tất cả các nước chấm dứt năm 1914” đăng trong “The World Magazine”, số ra ngày 30-8-1914

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2025)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ