THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w98 15/3 trg 12-17
  • Sự dâng mình và sự tự do lựa chọn

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Sự dâng mình và sự tự do lựa chọn
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1998
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Dâng mình cho “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”
  • Sự dâng mình của “dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời”
  • Khôn ngoan sử dụng sự tự do mà Đức Chúa Trời ban cho
  • Chọn làm tôi cho ai?
  • Học để hưởng lợi ích
  • Họ sinh ra trong một dân tộc được Đức Chúa Trời chọn
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2006
  • Bạn có sống xứng đáng với sự dâng mình không?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2001
  • “Hằng ngày” sống xứng đáng với sự dâng mình
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
  • Tại sao dâng mình cho Đức Giê-hô-va?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2010
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1998
w98 15/3 trg 12-17

Sự dâng mình và sự tự do lựa chọn

“Đấng Christ đã buông-tha chúng ta cho được tự-do” (GA-LA-TI 5:1).

 1. Những từ được dịch từ tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy Lạp là “dâng mình”, “khánh thành”, hoặc “hiến dâng” được áp dụng chính yếu cho cái gì?

NHỮNG người viết Kinh thánh dùng một số từ Hê-bơ-rơ và Hy Lạp để truyền đạt ý tưởng được tách ra, hoặc dành riêng ra, để dùng vào một mục tiêu thánh khiết nào đó. Trong nhiều bản dịch Kinh-thánh Việt ngữ, những từ này được dịch bằng những từ như “dâng mình”, “khánh thành”, hoặc “hiến dâng”. Đôi khi những từ này được dùng liên kết với những cấu trúc—thường là đền thờ của Đức Chúa Trời ở thành Giê-ru-sa-lem cổ xưa và sự thờ phượng tại đó. Những từ này rất ít được dùng trong các vấn đề ngoài đời.

Dâng mình cho “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”

 2. Tại sao Đức Giê-hô-va chính đáng được gọi là “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”?

2 Vào năm 1513 TCN, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ xứ Ê-díp-tô. Sau đó ít lâu, Ngài tách họ riêng ra làm dân đặc biệt của Ngài, đưa họ vào giao ước, và nhờ đó, họ có mối liên lạc với Ngài. Ngài bảo họ: “bây giờ, nếu các ngươi vâng lời ta và giữ sự giao-ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi sẽ thuộc riêng về ta, vì cả thế-gian đều thuộc về ta” (Xuất Ê-díp-tô 19:5; Thi-thiên 135:4). Vì đã nhận dân Y-sơ-ra-ên làm tài sản riêng, nên Đức Giê-hô-va có thể chính đáng được gọi là “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (Giô-suê 24:23).

 3. Tại sao khi chọn Y-sơ-ra-ên làm dân riêng, Đức Giê-hô-va không hề thiên vị?

3 Khi nhận dân Y-sơ-ra-ên làm dân tộc dâng hiến của Ngài, Đức Giê-hô-va không hề thiên vị, bởi vì Ngài cũng quan tâm một cách yêu thương đến những người không phải là Y-sơ-ra-ên nữa. Ngài dạy dân Y-sơ-ra-ên: “Khi kẻ khách nào kiều-ngụ trong xứ các ngươi, thì chớ hà-hiếp người. Kẻ khách kiều-ngụ giữa các ngươi sẽ kể như đã sanh-đẻ giữa các ngươi; hãy thương-yêu người như mình, vì các ngươi đã làm khách kiều-ngụ trong xứ Ê-díp-tô: Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi” (Lê-vi Ký 19:33, 34). Nhiều thế kỷ sau đó, quan điểm của Đức Chúa Trời đã tác động sứ đồ Phi-e-rơ một cách mạnh mẽ. Sứ đồ thừa nhận: “Quả thật, ta biết Đức Chúa Trời chẳng hề vị-nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính-sợ Ngài và làm sự công-bình, thì nấy được đẹp lòng Chúa” (Công-vụ các Sứ-đồ 10:34, 35).

 4. Mối liên lạc giữa Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên dựa trên những điều kiện nào? và dân Y-sơ-ra-ên có đáp ứng được không?

4 Cũng cần lưu ý là việc được làm dân tộc dâng mình của Đức Chúa Trời có những điều kiện kèm theo. Chỉ khi nào họ triệt để vâng nghe tiếng của Đức Chúa Trời và giữ giao ước của Ngài, họ mới “thuộc riêng về” Ngài. Đáng buồn là dân Y-sơ-ra-ên đã không đáp ứng được các đòi hỏi này. Sau khi từ bỏ đấng Mê-si mà Đức Chúa Trời sai đến vào thế kỷ thứ nhất CN, họ đã mất đi địa vị đặc ân. Đức Giê-hô-va không còn là “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” nữa. Và dân Y-sơ-ra-ên xác thịt cũng không còn là dân tộc dâng mình của Đức Chúa Trời nữa (So sánh Ma-thi-ơ 23:23).

Sự dâng mình của “dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời”

 5, 6. a) Chúa Giê-su có ý nói gì trong lời tiên tri của Ngài nơi Ma-thi-ơ 21:42, 43? b) “Dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời” hình thành thế nào và khi nào?

5 Phải chăng điều này có nghĩa là hiện nay Đức Giê-hô-va không có một dân tộc dâng mình nào? Không phải vậy. Trích lời của người viết Thi-thiên, Chúa Giê-su Christ tiên tri trước: “Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh-thánh: Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra, trở nên đá đầu góc nhà; ấy là việc Chúa làm, và là một sự lạ trước mắt chúng ta, hay sao? Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết-quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21:42, 43).

6 Hội thánh tín đồ đấng Christ đã chứng tỏ là “dân sẽ có kết-quả của nước đó”. Trong thời gian sống trên đất, Chúa Giê-su đã lựa chọn những thành viên tương lai đầu tiên của nước này. Nhưng vào ngày Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN, chính Đức Giê-hô-va đã thành lập hội thánh tín đồ đấng Christ khi Ngài đổ thánh linh xuống trên những thành viên đầu tiên khoảng 120 người (Công-vụ các Sứ-đồ 1:15; 2:1-4). Như sứ đồ Phi-e-rơ viết sau này, hội thánh mới thành lập ấy trở nên một “dòng-giống được lựa-chọn, là chức thầy tế-lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời”. Được chọn để làm gì? Để họ “rao-giảng nhơn-đức của Đấng đã gọi (họ) ra khỏi nơi tối-tăm, đến nơi sáng-láng lạ-lùng của Ngài” (I Phi-e-rơ 2:9). Những môn đồ của đấng Christ được xức dầu bằng thánh linh của Đức Chúa Trời, nay là một dân dâng mình cho Đức Chúa Trời, tức là “dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 6:16).

 7. Các thành viên dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời được hưởng điều gì, và do đó họ được khuyên phải tránh điều gì?

7 Mặc dầu các thành viên của dân thánh là một “dân thuộc về Đức Chúa Trời” nhưng họ không bị làm nô lệ. Trái lại, họ được hưởng sự tự do lớn hơn là sự tự do mà dân Y-sơ-ra-ên xác thịt, một dân đã dâng mình cho Ngài, trước đây có. Chúa Giê-su hứa với những thành viên tương lai của dân tộc mới này: “Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông-tha các ngươi” (Giăng 8:32). Sứ đồ Phao-lô cho thấy các tín đồ đấng Christ không còn bị những đòi hỏi của giao ước Luật pháp ràng buộc. Về phương diện này, sứ đồ khuyên anh em cùng đạo ở Ga-la-ti như sau: “Đấng Christ đã buông-tha chúng ta cho được tự-do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi-mọi nữa” (Ga-la-ti 5:1).

 8. Về phương diện nào, sự sắp đặt trong đạo đấng Christ cho người ta sự tự do lớn hơn là người ở dưới giao ước Luật pháp?

8 Không giống như dân Y-sơ-ra-ên xác thịt thuở xưa, dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời, cho tới nay, vẫn triệt để vâng theo những gì mà sự dâng mình đòi hỏi. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các thành viên của dân này được tự do lựa chọn trong việc vâng theo. Trong khi những thành viên của dân Y-sơ-ra-ên xác thịt trở thành dân dâng mình của Ngài chỉ vì lý do sanh ra trong dân ấy, còn các thành viên của dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời trở thành dân dâng mình của Ngài do sự lựa chọn. Do đó, sự sắp đặt trong đạo đấng Christ khác biệt hẳn với giao ước Luật pháp của Do thái giáo vốn áp đặt sự dâng mình trên mỗi cá nhân, mà không cho họ sự tự do chọn lựa.

 9, 10. a) Giê-rê-mi đã cho thấy là sẽ có một sự thay đổi liên quan đến việc dâng mình như thế nào? b) Tại sao bạn có thể nói rằng không phải tất cả các tín đồ đấng Christ đã dâng mình ngày nay đều thuộc dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời?

9 Nhà tiên tri Giê-rê-mi đã nói trước về một sự thay đổi liên quan đến việc dâng mình. Ông viết: “Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ lập một giao-ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao-ước nầy sẽ không theo giao-ước mà ta đã kết với tổ-phụ chúng nó trong ngày ta nắm tay dắt ra khỏi đất Ê-díp-tô, tức giao-ước mà chúng nó đã phá đi, dầu rằng ta làm chồng chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ làm dân ta” (Giê-rê-mi 31:31-33).

10 Nhờ luật pháp của Đức Chúa Trời được đặt “trong bụng”, được chép “vào lòng”, những người thuộc dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời được thúc đẩy để sống xứng đáng với sự dâng mình của họ. Họ có động lực mạnh mẽ hơn dân Y-sơ-ra-ên xác thịt là dân dâng mình vì sanh ra trong dân ấy chứ không phải vì lựa chọn. Ngày nay, động cơ mạnh mẽ để làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được thấy rõ nơi dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời, và nơi hơn năm triệu người cùng thờ phượng Đức Chúa Trời với họ trên toàn thế giới. Những người này cũng dâng đời sống mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời để làm theo ý muốn Ngài. Họ không có hy vọng sống trên trời như những người hợp thành dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời, nhưng họ có triển vọng sống đời đời trên đất dưới sự cai trị của Nước Đức Chúa Trời ở trên trời. Họ biểu lộ lòng biết ơn đối với dân Y-sơ-ra-ên thiêng liêng bằng cách tích cực hỗ trợ một số nhỏ thành viên còn sót lại để hoàn tất công việc được giao phó là “rao-giảng nhơn-đức của Đấng đã gọi (họ) ra khỏi nơi tối-tăm, đến nơi sáng-láng lạ-lùng của Ngài”.

Khôn ngoan sử dụng sự tự do mà Đức Chúa Trời ban cho

11. Con người được tạo ra với khả năng gì, và nên dùng khả năng này như thế nào?

11 Con người được Đức Chúa Trời tạo ra với bản năng quý sự tự do. Họ được ban cho khả năng tự do ý chí. Cặp vợ chồng loài người đầu tiên đã dùng sự tự do lựa chọn của họ. Tuy nhiên, họ đã thiếu khôn ngoan và thiếu yêu thương trong việc lựa chọn, và do đó đã đem lại thảm họa cho họ và cho dòng dõi của họ. Dầu sao điều này cũng minh chứng rằng, Đức Giê-hô-va không bao giờ cưỡng ép các tạo vật thông minh phải theo một đường lối ngược lại với động cơ, và ước muốn trong lòng họ. Bởi vì “Đức Chúa Trời yêu kẻ thí của cách vui lòng”, nên Ngài chỉ chấp nhận sự dâng mình dựa trên yêu thương, bởi tự ý và vui lòng, đồng thời dựa trên nền tảng tự do lựa chọn (II Cô-rinh-tô 9:7). Còn ngoài ra, không được Ngài chấp nhận.

12, 13. Trường hợp của Ti-mô-thê được dùng làm mẫu mực cho việc huấn luyện con cái như thế nào, và gương của anh đã ảnh hưởng gì trên những người trẻ?

12 Vì hoàn toàn thừa nhận đòi hỏi này, Nhân-chứng Giê-hô-va ủng hộ việc một người dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng họ không bao giờ ép buộc bất cứ người nào phải dâng mình, ngay cả đối với con cái của họ. Khác với nhiều nhà thờ, các Nhân-chứng không làm báp têm cho con còn thơ ấu của họ, làm như ép chúng phải dâng mình, không để chúng được tự do lựa chọn. Kinh thánh cho chúng ta một khuôn mẫu để theo. Chính người trẻ Ti-mô-thê đã theo khuôn mẫu này. Sứ đồ Phao-lô nói với Ti-mô-thê lúc anh đã là người lớn: “Hãy đứng vững trong những sự con đã đem lòng tin chắc mà học và nhận lấy, vì biết con đã học những đều đó với ai, và từ khi con còn thơ-ấu đã biết Kinh-thánh vốn có thể khiến con khôn-ngoan để được cứu bởi đức-tin trong Đức Chúa Jêsus-Christ” (II Ti-mô-thê 3:14, 15).

13 Điều đáng chú ý là Ti-mô-thê biết Kinh thánh vì anh được dạy từ thơ ấu. Anh đã đem lòng chứ không phải bị bắt buộc tin những gì mà mẹ và bà của anh dạy về đạo đấng Christ (II Ti-mô-thê 1:5). Kết quả là Ti-mô-thê thấy được việc trở thành môn đồ của đấng Christ là khôn ngoan, và do đó anh đã tự chọn sự dâng mình của tín đồ đấng Christ. Thời nay, hàng chục ngàn thanh niên nam nữ có cha mẹ là Nhân-chứng Giê-hô-va, đã theo gương mẫu này (Thi-thiên 110:3). Cũng có những người trẻ khác không làm như vậy. Vì đây là vấn đề lựa chọn có tính cách cá nhân.

Chọn làm tôi cho ai?

14. Rô-ma 6:16 cho chúng ta biết gì về sự tự do hoàn toàn?

14 Không một người nào được hoàn toàn tự do. Người nào cũng bị các định luật vật lý, như là luật về trọng lực, giới hạn sự tự do của mình. Không một ai lơ đi luật này mà lại không bị hậu quả thảm hại. Cũng vậy, về thiêng liêng, không ai được hoàn toàn tự do. Phao-lô lý luận: “Anh em há chẳng biết rằng nếu anh em đã nộp mình làm tôi-mọi đặng vâng-phục kẻ nào, thì là tôi-mọi của kẻ mình vâng-phục, hoặc của tội-lỗi đến sự chết, hoặc của sự vâng-phục để được nên công-bình hay sao?” (Rô-ma 6:16).

15. a) Người ta thường cảm thấy thế nào về việc làm nô lệ, nhưng cuối cùng phần lớn người ta lại làm gì? b) Chúng ta nên tự hỏi những câu hỏi chính đáng nào?

15 Ý tưởng làm tôi mọi cho một người nào thường gây ấn tượng khó chịu đối với phần lớn người ta. Tuy vậy, trong thế giới ngày nay, thực tế là người ta thường để cho người khác dùng rất nhiều cách khôn khéo để thao túng, và ảnh hưởng họ, để rồi cuối cùng, họ vô tình làm những gì người khác muốn họ làm. Chẳng hạn, kỹ nghệ quảng cáo và thế giới giải trí ra sức dồn ép người ta phải nghĩ, và hành động theo một khuôn mẫu, và đặt ra những tiêu chuẩn để người ta làm theo. Các tổ chức chính trị và tôn giáo thường không dùng đến sự thuyết phục bằng lý luận để đạt được sự ủng hộ của quần chúng đối với các kế hoạch và mục tiêu của họ. Thay vì thế, họ thường dùng tình đoàn kết hoặc sự trung thành làm chiêu bài. Sứ đồ Phao-lô cho thấy là ‘mình làm tôi-mọi của kẻ mình vâng-phục’. Vì vậy, mỗi người chúng ta nên tự hỏi: ‘Tôi làm nô lệ cho ai? Ai có ảnh hưởng lớn nhất trong các quyết định và lối sống của tôi? Có phải là giới lãnh đạo tôn giáo, các lãnh tụ chính trị, các trùm tài phiệt, hoặc các nhân vật nổi tiếng trong lãnh vực giới giải trí chăng? Tôi vâng phục ai?—Đức Chúa Trời hay loài người?’

16. Tín đồ đấng Christ làm nô lệ cho Đức Chúa Trời theo nghĩa nào, và quan điểm đúng đắn về sự nô lệ đó là gì?

16 Các tín đồ đấng Christ không coi sự vâng phục Đức Chúa Trời như một sự vi phạm sự tự do cá nhân một cách phi lý. Họ sẵn lòng hành sử sự tự do của họ theo cách mà đấng Gương Mẫu của họ, Chúa Giê-su Christ, đã làm, tức là đặt các ham muốn và ưu tiên cá nhân của mình hòa hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời (Giăng 5:30; 6:38). Họ phát triển “ý của Đấng Christ”, phục tùng Ngài là Đầu hội thánh (I Cô-rinh-tô 2:14-16; Cô-lô-se 1:15-18). Điều này rất giống như một phụ nữ lấy chồng và sẵn sàng hợp tác với người mà nàng yêu. Thật vậy, Kinh thánh gọi tập thể tín đồ đấng Christ được xức dầu là một trinh nữ thanh sạch được hứa gả cho đấng Christ (II Cô-rinh-tô 11:2; Ê-phê-sô 5:23, 24; Khải-huyền 19:7, 8).

17. Tất cả các Nhân-chứng Giê-hô-va chọn để trở thành gì?

17 Mỗi Nhân-chứng Giê-hô-va, dầu có hy vọng sống trên trời hay trên đất, đều đã tự dâng mình cho Đức Chúa Trời để làm theo ý muốn Ngài và vâng phục sự cai trị của Ngài. Đối với mỗi Nhân-chứng, sự dâng mình phải là do tự mình chọn lựa để trở thành tôi tớ của Đức Chúa Trời hơn là tiếp tục làm tôi mọi cho người ta. Điều này phù hợp với lời khuyên của sứ đồ Phao-lô: “Anh em đã được chuộc bằng giá cao, chớ trở nên tôi-mọi của người ta làm chi” (I Cô-rinh-tô 7:23).

Học để hưởng lợi ích

18. Khi nào thì một người có triển vọng trở thành Nhân-chứng hội đủ điều kiện để làm báp têm?

18 Trước khi một người có thể trở thành một Nhân-chứng Giê-hô-va, anh phải hội đủ những điều kiện mà Kinh-thánh đòi hỏi. Các trưởng lão sẽ thận trọng trong việc xác định xem, người muốn trở thành Nhân-chứng có thật sự hiểu sự dâng mình của tín đồ đấng Christ bao hàm những gì không. Anh có thật lòng muốn trở thành một Nhân-chứng Giê-hô-va không? Anh có sẵn lòng sống phù hợp với những gì mà sự dâng mình đòi hỏi không? Nếu không, thì anh chưa đủ điều kiện để làm báp têm.

19. Tại sao không có lý do để chỉ trích một người quyết định trở thành một tôi tớ dâng mình của Đức Chúa Trời?

19 Tuy nhiên, nếu một người nào đó hội đủ tất cả các điều kiện, thì tại sao anh lại bị chỉ trích về việc anh tình nguyện và tự ý quyết định đặt mình dưới ảnh hưởng của Đức Chúa Trời và Lời được soi dẫn của Ngài? Chẳng lẽ việc đặt mình dưới ảnh hưởng của Đức Chúa Trời lại không tốt bằng dưới ảnh hưởng của người ta sao? Hoặc giả ít lợi ích hơn? Nhân-chứng Giê-hô-va không nghĩ như vậy. Họ đồng ý hoàn toàn với lời của Đức Chúa Trời do Ê-sai viết: “Ta là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng dạy cho ngươi được ích, và dắt ngươi trong con đường ngươi phải đi” (Ê-sai 48:17).

20. Lẽ thật của Kinh-thánh giải thoát người ta về những phương diện nào?

20 Lẽ thật của Kinh-thánh giải thoát người ta khỏi sự tin tưởng vào những học thuyết tôn giáo giả dối, như sự thống khổ đời đời trong hỏa ngục (Truyền-đạo 9:5, 10). Thay vì thế, lẽ thật làm cho lòng người ta biết ơn tràn trề về hy vọng thật dành cho người chết—sự sống lại—nhờ sự hy sinh làm giá chuộc của Chúa Giê-su mà có (Ma-thi-ơ 20:28; Công-vụ các Sứ-đồ 24:15; Rô-ma 6:23). Lẽ thật của Kinh-thánh giải thoát người ta khỏi những sự thất vọng bởi tin vào những lời hứa hão của các chính khách. Thay vì thế, lẽ thật làm cho lòng người tràn ngập niềm vui khi biết rằng Nước của Đức Giê-hô-va đang cai trị trên trời rồi và sắp sửa cai trị trên toàn trái đất. Lẽ thật của Kinh-thánh cũng giải thoát người ta khỏi những thực hành mặc dầu hấp dẫn đối với xác thịt yếu đuối, nhưng lại làm ô danh Đức Chúa Trời và gây ra những thiệt hại nặng nề như nhiều mối quan hệ bị đổ vỡ, bệnh hoạn, và chết yểu. Nói một cách giản dị, làm tôi Đức Chúa Trời đem lại lợi ích gấp bội so với việc làm tôi loài người. Thật vậy, việc dâng mình cho Đức Chúa Trời đem lại nhiều lợi ích “trong đời này... và sự sống đời đời trong đời sau” (Mác 10:29, 30).

21. Nhân-chứng Giê-hô-va coi sự dâng mình cho Đức Chúa Trời như thế nào, và họ ước mong gì?

21 Nhân-chứng Giê-hô-va ngày nay không phải là một dân tộc dâng mình từ lúc sanh ra như dân Y-sơ-ra-ên xưa. Họ thuộc về một hội thánh các tín đồ đấng Christ dâng mình. Mỗi người khi làm báp têm để trở thành Nhân-chứng, thì chính họ đã dùng sự tự do lựa chọn của họ trong việc dâng mình này. Thật vậy, đối với Nhân-chứng Giê-hô-va, nhờ sự dâng mình mà họ có một mối liên lạc cá nhân gần gũi với Đức Chúa Trời, được thấy qua tinh thần sẵn sàng phụng sự Ngài. Họ hết sức ao ước duy trì mối liên lạc vui sướng này. Họ giữ chặt mãi mãi sự tự do mà họ có nhờ sự giải thoát của Chúa Giê-su.

Bạn sẽ trả lời thế nào?

◻ Tại sao Đức Chúa Trời không thiên vị khi chọn dân Y-sơ-ra-ên làm “dân thuộc riêng về” Ngài?

◻ Tại sao bạn có thể nói rằng sự dâng mình của tín đồ đấng Christ không đòi hỏi phải mất đi tự do?

◻ Sự dâng mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem lại những lợi ích nào?

◻ Tại sao làm tôi tớ của Đức Giê-hô-va tốt hơn là làm nô lệ cho người ta?

[Hình nơi trang 15]

Ở nước Y-sơ-ra-ên xưa, sự dâng mình cho Đức Chúa Trời chỉ là vấn đề sanh ra từ dân ấy

[Hình nơi trang 16]

Sự dâng mình của tín đồ đấng Christ là vấn đề lựa chọn

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2025)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ