THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • bsi07 trg 16-17
  • Sách Kinh Thánh quyển 31—Áp-đia

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Sách Kinh Thánh quyển 31—Áp-đia
  • “Cả Kinh-thánh”—Xác thực và hữu ích, Tập 15
  • Tiểu đề
  • TẠI SAO HỮU ÍCH
“Cả Kinh-thánh”—Xác thực và hữu ích, Tập 15
bsi07 trg 16-17

Sách Kinh Thánh quyển 31—Áp-đia

Người viết: Áp-đia

Hoàn tất: Khoảng 607 TCN

ÁP-ĐIA là sách ngắn nhất trong phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ. Chỉ vỏn vẹn với 21 câu, sách loan báo rằng Đức Chúa Trời sẽ phán xét và kết liễu một dân. Áp-đia cũng báo trước về kết cuộc thắng lợi của Nước Đức Chúa Trời. Lời mở đầu của sách chỉ nói: “Sự hiện-thấy của Áp-đia”. Kinh Thánh không cho biết gì thêm về thời gian, nơi sinh, chi phái và những chi tiết liên quan đến cuộc đời ông. Rõ ràng, chính thông điệp mới thật sự quan trọng chứ không phải tiểu sử của nhà tiên tri này. Thật thế, vì như Áp-đia đã tuyên bố, đây là “lời rao từ Đức Giê-hô-va”.

2 Lời rao báo này chủ yếu dành cho xứ Ê-đôm. Tọa lạc ở phía nam Biển Chết, dọc theo thung lũng A-ra-ba, xứ Ê-đôm (còn gọi là Núi Sê-i-rơ) là một vùng đất hiểm trở với những ngọn núi cao sừng sững và vực thẳm. Trong rặng núi ở phía đông thung lũng A-ra-ba, có những ngọn cao đến 1.700 mét. Người dân địa hạt Thê-man của xứ Ê-đôm, nổi tiếng là khôn ngoan và can đảm. Xứ Ê-đôm có được những tuyến phòng thủ thiên nhiên nhờ địa hình của xứ, chính vì thế mà người dân nơi đây cảm thấy an toàn và tự hào.a

3 Dân Ê-đôm là con cháu Ê-sau, anh của Gia-cốp. Gia-cốp được đổi tên thành Y-sơ-ra-ên, vì vậy dân Ê-đôm và dân Y-sơ-ra-ên có quan hệ rất gần với nhau, đến nỗi họ được gọi là “anh em”. (Phục 23:7) Tuy nhiên, thái độ của dân Ê-đôm chẳng thể hiện chút tình anh em. Không lâu trước khi dân Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa, Môi-se phái một sứ giả đến gặp vua của Ê-đôm để xin phép đi ngang qua xứ này với tinh thần hòa bình. Tuy nhiên, bằng thái độ thù nghịch, dân Ê-đôm đã lạnh lùng từ chối và biểu dương lực lượng để thị uy. (Dân 20:14-21) Sau đó, họ bị Đa-vít chinh phục, nhưng đến thời Giô-sa-phát, dân Ê-đôm âm mưu với dân Am-môn và Mô-áp để chống lại Giu-đa. Họ cũng nổi dậy chống lại Vua Giô-ram, con Vua Giô-sa-phát, và nhận nô lệ người Y-sơ-ra-ên từ Ga-xa và Ty-rơ. Họ còn đột kích Giu-đa vào thời Vua A-cha để bắt thêm nô lệ.—2 Sử 20:1, 2, 22, 23; 2 Vua 8:20-22; A-mốt 1:6, 9; 2 Sử 28:17.

4 Mối thù nghịch này lên đến cao điểm vào năm 607 TCN, khi đạo quân Ba-by-lôn biến Giê-ru-sa-lem thành hoang địa. Dân Ê-đôm không những hả hê khi thấy cảnh đó mà còn xúi giục kẻ chinh phục hủy phá Giê-ru-sa-lem hoàn toàn. Họ hô lớn: “Hãy hủy-hoại, hãy hủy-hoại cho đến tận nền nó đi!” (Thi 137:7) Khi bốc thăm để chia chiến lợi phẩm, họ cũng có phần trong đó. Hơn nữa, khi những người Do Thái tìm cách rời bỏ xứ bị giặc chiếm, dân Ê-đôm chặn đường bắt họ lại, rồi giao cho kẻ thù. Hành động gian ác này của dân Ê-đôm trong thời Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt là nguyên do để Áp-đia loan báo lời phán xét. Và chắc hẳn ông viết lời này khi trong trí vẫn còn in đậm những hành động đáng khinh của dân Ê-đôm. (Áp 11, 14) Trong thời gian 5 năm sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt, dường như chính xứ Ê-đôm cũng bị Nê-bu-cát-nết-sa xâm chiếm và cướp phá. Vì vậy, sách này hẳn được viết ra trước giai đoạn đó, và năm 607 TCN có lẽ là năm thích hợp nhất.

5 Lời tiên tri của Áp-đia về Ê-đôm đã được ứng nghiệm—về mọi phương diện! Cao điểm của lời tiên tri này là lời rao báo: “Nhà Ê-sau sẽ là đống rơm, mà chúng nó sẽ đốt và thiêu đi. Nhà Ê-sau sẽ không còn sót chi hết; vì Đức Giê-hô-va đã phán vậy”. (Câu 18) Dân Ê-đôm đã sống nhờ gươm, nên cũng sẽ chết vì gươm, không còn hậu tự nào trong dân này còn sống sót. Sự kiện này chứng tỏ tính xác thực và chân thật của sách. Áp-đia hội đủ những tiêu chuẩn của một nhà tiên tri thật: Ông tiên tri nhân danh Đức Giê-hô-va, lời tuyên bố của ông làm rạng danh Đức Giê-hô-va, và lịch sử sau đó cũng chứng minh lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm. Ông thật xứng đáng với tên của mình, có nghĩa là “Tôi tớ của Đức Giê-hô-va”.

TẠI SAO HỮU ÍCH

10 Để khẳng định thông điệp phán xét nghịch cùng dân Ê-đôm chắc chắn sẽ thành sự thật, Đức Giê-hô-va cũng dùng những nhà tiên tri khác để loan báo thông điệp tương tự, nổi bật nhất là những lời nơi Giô-ên 3:19; A-mốt 1:11, 12; Ê-sai 34:5-7; Giê-rê-mi 49:7-22; Ê-xê-chi-ên 25:12-14; 35:2-15. Hiển nhiên, những lời tiên tri trước thời Áp-đia thì nói về hành động thù nghịch trước kia của dân Ê-đôm, còn những lời tiên tri thời Áp-đia rõ ràng lên án hành vi không thể tha thứ của dân Ê-đôm trong giai đoạn dân Ba-by-lôn vây hãm thành Giê-ru-sa-lem. Nếu tìm hiểu để biết những thảm họa được báo trước đã xảy ra thế nào cho dân Ê-đôm, chúng ta sẽ vững tin nơi khả năng tiên tri của Đức Giê-hô-va. Hơn nữa, điều này cũng giúp chúng ta ngày càng tin chắc rằng Đức Giê-hô-va luôn thực hiện ý định của Ngài.—Ê-sai 46:9-11.

11 Áp-đia đã báo trước rằng chính “kẻ đồng-minh”, tức những dân “hòa-thuận cùng” Ê-đôm, sẽ thắng họ. (Áp 7) Mối hòa hảo giữa Ba-by-lôn và Ê-đôm kéo dài không lâu. Đến thế kỷ thứ sáu TCN, dưới sự lãnh đạo của Vua Na-bô-nê-đô, đạo quân Ba-by-lôn đã chinh phục Ê-đôm.b Tuy nhiên, một thế kỷ sau khi bị Na-bô-nê-đô xâm chiếm, dân kiêu ngạo Ê-đôm vẫn hy vọng được hồi hương. Ma-la-chi 1:4 nói về điều này: “Nếu Ê-đôm nói rằng: Chúng ta đã bị hủy-diệt, song chúng ta sẽ trở về dựng lại những nơi đổ-nát, thì Đức Giê-hô-va vạn-quân cũng phán rằng: Chúng nó sẽ dựng lại, nhưng ta sẽ đổ xuống”. Bất chấp nỗ lực phục hồi của dân Ê-đôm, đến thế kỷ thứ tư TCN, dân Nabataea hoàn toàn định cư trong xứ này. Bị mất xứ, dân Ê-đôm sống lưu vong tại miền nam Giu-đê, sau này gọi là Y-đu-mê. Họ chưa bao giờ giành lại được vùng Sê-i-rơ.

12 Sử gia Josephus cho biết rằng vào thế kỷ thứ hai TCN, dân Ê-đôm bị Vua Gio-an Hiếc-ca-nô I của Do Thái chinh phục và buộc phải chịu phép cắt bì. Họ ở dưới quyền một tổng đốc Do Thái và dần dần bị đồng hóa. Sau khi quân La Mã hủy diệt Giê-ru-sa-lem vào năm 70 CN, dân Ê-đôm biến mất trong lịch sử.c Đúng như Áp-đia đã báo trước: “[Ngươi sẽ] bị diệt đời đời. . . Nhà Ê-sau sẽ không còn sót chi hết”.—Áp 10, 18.

13 Tương phản với tình trạng hoang vu của Ê-đôm, dân Do Thái được hồi hương vào năm 537 TCN dưới sự lãnh đạo của tổng đốc Xô-rô-ba-bên. Họ tái thiết đền thờ ở Giê-ru-sa-lem và định cư trong xứ.

14 Thái độ kiêu căng tự mãn quả thật đã dẫn đến tai họa! Hỡi những kẻ tự cao và tàn nhẫn, hả hê trước nỗi khổ của tôi tớ Đức Chúa Trời, hãy ghi nhớ số phận của dân Ê-đôm! Noi gương Áp-đia, hãy nhận biết rằng vương quyền “thuộc về Đức Giê-hô-va”. Những ai đối nghịch cùng Đức Giê-hô-va và dân Ngài sẽ bị diệt vĩnh viễn, nhưng Nước vinh hiển của Đức Giê-hô-va và quyền cai trị đời đời của Ngài sẽ còn mãi mãi!—Câu 21.

[Chú thích]

a Insight on the Scriptures (Thông hiểu Kinh Thánh), Tập 1, trang 679.

b Insight on the Scriptures, Tập 1, trang 682.

c Jewish Antiquities (Do Thái thời cổ đại), XIII, 257, 258 (ix, 1); XV, 253, 254 (vii, 9).

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2025)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ